4.3/5 - (3 bình chọn)

Giải thích Thành ngữ – Tục ngữ

Đèo heo hút gió Con cà con kê Có công mài sắt, có ngày nên kim Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào Chạy như cờ lông công Cạn tàu ráo máng Ăn ốc nói mò Sống để dạ chết mang theo Cà cuống chết đến đít còn cay Ba chìm bảy nổi Giàu vì bạn, sang vì vợ Chim sa cá lặn Cái tổ con chuồn chuồn Chờ được mạ, má đã sưng Bợm già mắc bẫy cò ke Bá Nha – (Chung) Tử Kỳ Bầu dục chấm mắm cáy Áo vải, cờ đào Ăn cơm nhà thổi tù và hàng tổng Áo gấm đi đêm Ăn cháo đái bát Chân nam đá chân chiêu Bóc ngắn cắn dài Lá lành đùm lá rách Cõng rắn cắn gà nhà Được voi đòi tiên Ăn vóc học hay Vụng chèo khéo chống Nhạt phấn phai hương Rau muống tháng 9 nhịn cho mẹ chồng Ếch ngồi đáy giếng Cú kêu cho ma ăn Ăn chay niệm phật nói lời từ bi Vàng thau lẫn lộn Năm tao bảy tuyết Chạy như cờ lông công Có nếp có tẻ Ba chìm bảy nổi Nước mắt cá sấu Tức nước vỡ bờ Thả mồi bắt bóng Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào Tứ cố vô thân Trúc dẫu cháy đốt ngay vẫn thẳng Thua keo này bày keo khác Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa Ướt như chuột lột Cú kêu cho ma ăn Bóng chim tăm cá Như nước đổ đầu vịt Kẻ tám lạng người nửa cân Trộm cắp như rươi Một nắng hai sương Mạt cưa mướp đắng Chó mái chim mồi Máu ghen Hoạn Thư Ma ăn cỗ Nói có sách, mách có chứng Xác như vờ, xơ như nhộng Len lét như rắn mùng năm Dốt có đuôi Nợ như chúa Chổm Tham bát bỏ mâm Tấc đất cắm dùi Hàng tôm hàng cá Lời ong tiếng ve Lệnh ông không bằng cồng bà Sơn cùng thủy tận Tha phương cầu thực Sống để dạ chết mang theo Rách như tổ đỉa Rước voi giày mả tổ Ba que xỏ lá Ba hồn bảy vía – Ba hồn chín vía Cáo mượn oai hùm Đi một ngày đàng, học một sàng khôn Đồng không mông quạnh Nói nhăng nói cuội Chết đứng như Từ Hải Đười ươi giữ ống Hồn xiêu phách lạc Nói toạc móng heo Quýt làm cam chịu Vừa ăn cướp vừa la làng Trướng rủ màn che Lo bò trắng răng Nát như tương Cửa Khổng sân Trình Sức dài vai rộng Tiền trảm hậu tấu Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương Bách phát bách trúng Ướt như chuột lột Chén tạc chén thù Ông chẳng bà chuộc Kín cổng cao tường Há miệng mắc quai Oan Thị Kính Lá mặt lá trái Há miệng chờ sung Gửi trứng cho ác Giàu làm kép hẹp làm đơn Được voi đòi tiên Đa nghi như Tào Tháo Dở dở ương ương Thoả chí tang bồng Cõng rắn cắn gà nhà Niêu cơm Thạch Sanh Như vợ chồng sam Gửi trứng cho ác Chết đuối vớ được cọc Chữ như gà bới Ốc không nổi mình ốc lại mang cọc cho rêu Ông Tơ bà Nguyệt Cốc mò cò xơi Mưa không khắp Một miệng thì kín, chín miệng thì hở Mất bò mới lo làm chuồng Lừa ưa nặng Một nghề thì sống đống nghề thì chết Mèo già hóa cáo Lươn ngắn lại chê chạch dài, thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm Tham thì thâm Như vợ chồng ngâu Qua cầu rút ván Xui nguyên giục bị Lấy thúng úp voi Chuồn chuồn đạp nước Hằng hà sa số Gan cóc tía Một mất mười ngờ Ruột để ngoài da Phúc họa khó lường Mũ ni che tai Giậu đổ bìm leo Chuột sa chĩnh gạo Bàn tay có ngón ngắn ngón dài Cá chậu chim lồng Đẽo cày giữa đường Yêu nên tốt, ghét nên xấu Quạ nào mà chẳng đen đầu Nằm gai nếm mật Chắp cánh liền cành Đứt đuôi con nòng nọc Gương vỡ lại lành Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo Đồ Sở Khanh Của ít lòng nhiều Nước chảy chỗ trũng Cha truyền con nối Rồng đến nhà tôm Môi hở răng lạnh Muỗi đốt chân voi Học vẹt Văn hay chữ tốt Ngang như cua Nhanh như cắt Mỗi cây mỗi hoa Của người phúc ta Tương cà gia bản Thuốc đắng dã tật Cháy nhà mới ra mặt chuột Cá không ăn muối cá ươn Cá hóa rồng Cá chuối đắm đuối vì con Lá thắm chỉ hồng Bọ ngựa chống xe Ăn lông ở lỗ Bàn tay không che nổi mặt trời Ngựa quen đường cũ Tấc đất tấc vàng Lòng vả cũng như lòng sung Hồng nhan bạc mệnh Đẹp như Tiên Dốt hay nói chữ Công cha nghĩa mẹ Giật gấu vá vai Đất có thổ công, sông có hà bá Bán lợi mua danh Bán trời không văn tự Ăn mày đánh đổ cầu ao Ăn như rồng cuốn Ăn cơm chúa, múa tối ngày Ăn chay niệm phật Cháy nhà ra mặt chuột Đục nước béo cò Già đòn non nhẽ

Câu thành ngữ chỉ người vô tâm vô tính, bộp chộp, không giấu ai điều gì.

Chuyện kể:

Thuở ấy, ở Thiên đình, các quả đào cứ đến độ chín đều được biến thành cô tiên bay ra nô đùa thỏa thích trong vườn.

Một hôm Thái thượng Lão quân trông coi vườn đào gặp một cô tiên tay xách làn xinh xắn, bay lả lướt trong vườn mà thấy lòng mình rạo rực, bèn lại gần bắt chuyện. Vì say đắm cảnh sắc lại thêm những lời tình tứ nên cả hai quên hết những điều luật Thiên đình. Thái thượng Lão quân thì kể cho nàng tiên nghe bao chuyện về Pháp đình, còn nàng tiên thì cũng chẳng giấu giếm gì những điều ong bướm trong vườn đào.

Họ cứ thế đùa chơi, lả lơi nồng thắm, cho đến khi hoàng hôn buông xuống mới sực nhớ ra. Thái thượng Lão quân thì vội lui về dinh thự của mình, còn nàng tiên thì chỉ trong chốc lát nhập vào quả đào thắm.

Nhớ buổi hàn huyên hôm qua, nên sớm hôm sau, nàng tiên lại từ quả đào bay ra. Lòng dạ xốn xang nên nàng tiên không sao giấu kín được nỗi niềm bèn tụ tập các nàng tiên lại rồi thao thao kể về chuyện pháp đình đến chuyện ong bướm mà hai người đã kể cho nhau nghe suốt một buổi.

Một miệng đâu đã kín, thế mà ở vườn hôm đó có chín mười miệng, nên chuyện ấy lan đi nhanh chóng. Ngọc Hoàng hay tin, cho rằng Thái thượng Lão quân để lộ thiên cơ chỉ vì ong bướm lả lơi, nên ra lệnh truất chức vụ trông coi vườn đào của Lão quân, cho đi coi chuồng ngựa. Còn nàng tiên nọ chuyện cứ oang oang, gặp đâu nói đấy nên Ngọc Hoàng phán rằng:

– Ngươi không giữ khuôn phép nhà trời, ruột để ngoài ra, thiếu chín chắn. Từ nay ngươi không được làm quả đào trong vườn nhà trời nữa. Cho ngươi xuống hạ giới nhập vào thứ cây quả hợp với lòng dạ của ngươi.

Nói đoạn, cây đào và quả đào nọ tự nhiên biến mất. Sau này, ở hạ giới, thấy xuất hiện một cây có trái, nhưng hột lại bám ở phía ngoài. Đồn rằng đó là cây đào nọ mà Ngọc Hoàng bắt phạt xuống trần gian. Người ta bảo hột nó để ngoài da, mới đặt tên cho nó là cây đào lộn hột. Ngày nay, nhiều vùng gọi nó là cây điều.

Đặc điểm của quả đào lộn hột là hột nằm bên ngoài, lộ ra. Có thể vì thế mà dân gian liên tưởng ví hột như ruột vậy.

Truyện trên kể về cô tiên lữ từ quả đào mà ra, nhưng chính là nói người. Phần nhiều “ruột để ngoài ra” thường được gán cho người phụ nữ, nên có câu:

Đàn ông nông nổi giếng khơi

Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.

Ở đây có cái đáng chê và cái đáng khen. Cái chê là vạch áo cho người xem lưng, nói toạc móng heo ra, cái khen là người bộc tuệch, thực bụng, có sao nói hết.

Theo Đi tìm điển tích thành ngữ của Tiêu Hà Minh – NXB Thông tấn

  • ← Một mất mười ngờ
  • → Phúc họa khó lường